10/04/2025
( HEN, BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH VÀ LAO PHỔI)
HEN, BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH VÀ LAO PHỔI
1.Đại cương về hen:
Hen là tình trạng viêm mạn tính đường thở bao gồm các phế quản và tiều phế quản, làm đường thở bị sưng nề, tăng tiết đàm nhớt và co thắt cơ trơn phế quản làm đường thở tắc nghẽn. Viêm mạn tính là do tương tác giữa cơ địa dị ứng của bản thân với các yếu tố gây hen từ môi trường bên ngoài:
- Cơ địa dị ứng của bản thân: là đặc điểm cơ thể dễ phản ứng dị ứng với các yếu tố gây dị ứng. Bệnh nhân có cơ địa dị ứng là người bản thân mắc hoặc có người thân cũng mắc các bệnh dị ứng như là hen suyễn, chàm da, dị ứng thức ăn, viêm mũi dị ứng, viêm kết mạc dị ứng. Tuy nhiên có người cũng mắc hen suyễn nhưng lại không có đặc điểm minh chứng rõ cơ địa dị ứng.
- Các yếu tố gây hen từ môi trường bao gồm: con mạt nhà trong chăn màn gối nệm, con gián trong bếp, các loại thú có lông như mèo và chó, phấn hoa, nấm mốc, các chất dị ứng trong nghề nghiệp như chất sulfite bảo quản thực phẩm, một số hóa chất như chất diệt côn trùng, chất tẩy, chất xịt phòng, một số thuốc men như aspirin, thuốc kháng viêm không corticoid .v.v…
Hen đa phần xuất hiện từ nhỏ nhưng cũng có một số trường hợp chỉ xuất hiện triệu chứng khi đã trưởng thành hoặc lớn tuổi. Một khi đã xuất hiện thì tình trạng viêm đường thở trong hen sẽ tiến triển âm thầm trong nhiều năm tháng và bùng lên mỗi khi có đợt cấp. Hiện tượng viêm mạn tính trong hen có thể tự kiểm soát như trong một số trường hợp hen trẻ em hoặc được kiểm soát nhờ điều trị kháng viêm, tuy nhiên hiện tượng viêm này không thể khỏi hẳn được đó là lý do vì sao hen không thể điều trị khỏi hẳn nhưng có thể điều trị kiểm soát được.
Triệu chứng điển hình của hen là ho, khò khè, khó thở, nặng ngực tái đi tái lại nhiều lần, xuất hiện khi cơ thể tiếp xúc với các yếu tố gây triệu chứng hen; ho đàm tăng, đàm đục, sốt khi có nhiễm trùng đường hô hấp.
Điều trị hen chủ yếu là thuốc kháng viêm (corticoid hít), giãn phế quản, điều trị tình trạng dị ứng, tránh các yếu tố gây hen.
2.Đại cương về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính:
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (sau đây được gọi BPTNMT, COPD) là bệnh lý tắc nghẽn đường hô hấp không hồi phục hoàn toàn, đây là bệnh lý mạn tính do nguyên nhân chủ yếu là thuốc lá và các yếu tố môi trường gây ra. Bệnh không phải do vi trùng gây ra nên không lây từ người này sang người khác.
Tuy nhiên nếu một nhóm người cùng tiếp xúc với yếu tố nguy cơ (như khói thuốc lá hay ô nhiễm môi trường) thì có thể có biểu hiện bệnh giống nhau. 80-90% những người bị BPTNMT có liên quan đến thuốc nhưng chỉ 15-20% những người hút thuốc lá mắc bệnh BPTNMT. Những người càng “nhạy cảm” với thuốc lá thì bị bệnh càng nặng.
Triệu chứng chính là ho, khạc đàm và khó thở khi gắng sức và ngày càng tăng. Chẩn đoán bệnh dựa vào tiền sử có tiếp xúc với yếu tố nguy cơ, các biểu hiện lâm sàng như ho khạc và khó thở kết hợp với hô hấp ký là tình trạng tắc nghẽn đường dẫn khí không hồi phục hoàn toàn.
Để phòng ngừa những đợt cấp do nhiễm siêu vi đường hô hấp bệnh nhân nên chích ngừa cảm cúm hàng năm.
Diễn tiến của bệnh là mạn tính (không khỏi hẳn) và thỉnh thoảng có những đợt cấp tính đa số do nguyên nhân nhiễm trùng hay nhiễm siêu vi. Bệnh không thể chữa dứt hẳn nhưng có thể kiểm soát cũng như làm chậm diễn tiến theo thời gian.
Mục tiêu là làm thế nào để người bệnh chung sống với bệnh tốt nhất. Nếu điều trị tốt, người bệnh có thể có cuộc sống gần như người bình thường (nhưng phải sử dụng thuốc) và ít khi có những đợt cấp phải nhập viện.
Phòng ngừa bệnh bằng cách không hút thuốc lá. Nếu làm việc trong môi trường ô nhiễm thì phải có bảo hộ lao động tốt. Nếu sống trong môi trường ô nhiễm thì phải mang khẩu trang khi tiếp xúc với môi trường đó.
Điều trị gồm các phương pháp dùng thuốc và không dùng thuốc:
+ Không dùng thuốc gồm vật lý trị liệu và oxy liệu pháp
+ Thuốc gồm hai nhóm chính là giãn phế quản và cortioid. Trong đó nhóm giãn phế quản gồm nhóm ức chế hệ thần kinh phó giao cảm, kích thích thụ thể bêta 2 và nhóm Xanthine, corticoid hít. Trong những đợt cấp có thể phải dùng kháng sinh để chống nhiễm trùng, corticoid dạng chích, uống.
3.Đại cương về bệnh lao phổi:
Lao phổi là bệnh lý phổi do vi trùng lao gây ra. Bệnh có biểu hiện bán cấp (nghĩa là không diễn tiến cấp tính như các bệnh lý viêm phế quản, viêm phổi nhưng không phải kéo dài mạn tính như BPTNMT).
Vì là bệnh do vi trùng gây ra nên bệnh này có thể lây từ người này sang người khác. Vi trùng lao lây lan chủ yếu bằng đường hô hấp. Khi người bệnh lao phổi mà xét nghiệm có vi trùng trong đàm thì khi nói chuyện, ho, hắt hơi sẽ thải ra môi trường bên ngoài một số lượng lớn vi trùng lao và gây nhiễm bệnh cho người khác. Các tiếp xúc khác như bắt tay… không lây bệnh lao.
Bệnh lao là do vi trùng lao gây ra. Vi trùng lao xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp. Tuy nhiên không phải tất cả những người bị nhiễm vi trùng lao đều mắc bệnh lao. Theo thống kê có khoảng 1/3 dân số thế giới bị nhiễm vi trùng lao nhưng chỉ khoảng 9 triệu người bị bệnh lao mỗi năm. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam hiện có 232.000 người mắc bệnh lao và mỗi ngày có 57 người chết vì bệnh lao.
Ở người bình thường, cơ thể luôn có một vài cơ chế chống lại sự xâm nhập của vi trùng lao. Khi vi trùng lao xâm nhập vào đường hô hấp, hệ thống lông chuyển trong đường hô hấp sẽ nhu động và tống vi trùng ra ngoài. Nếu vi trùng không được tống ra ngoài được thì sẽ được một đội quân bảo vệ cơ thể là bạch cầu bắt giữ và tiêu diệt kẻ ngoại xâm đó. Chỉ khi nào sức đề kháng của cơ thể bị yếu hay các hệ thống phòng thủ bị lỏng lẻo thì vi trùng mới có cơ hội phát triển và gây ra bệnh.
Nhận diện người nghi mắc lao phổi:
- Qua các triệu chứng thường gặp như: Ho kéo dài trên 2 tuần. Có thể kèm theo: Gầy sút, kém ăn, mệt mỏi, sốt nhẹ về chiều, ra mồ hôi “trộm” ban đêm, đau ngực, đôi khi khó thở.
- Qua nguy cơ mắc lao: Người nhiễm HIV/AIDS, tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây, đặc biệt trẻ em, mắc các bệnh mạn tính: loét dạ dày-tá tràng, đái tháo đường, ..., nghiện ma tuý, rượu, thuốc lá, thuốc lào, sử dụng các thuốc giảm miễn dịch kéo dài như Corticoid, hoá chất điều trị ung thư…
Triệu chứng của bệnh lao phổi gồm các triệu chứng của hội chứng nhiễm lao chung như mệt mỏi, biếng ăn, sụt cân, sốt nhẹ hay ớn lạnh về chiều tối và các triệu chứng ở phổi như ho, khạc đàm, đôi khi có ho ra máu.
Chẩn đoán bệnh lao phổi gồm kết hợp nguồn lây, lâm sàng, X quang phổi và một số xét nghiệm khác. Về lâm sàng thì gồm hội chứng nhiễm lao chung, triệu chứng ở phổi như đã nêu. Xquang phổi có biểu hiện thâm nhiễm một bên hay hai bên phổi, thường thấy ở đỉnh phổi. Những trường hợp nặng có thể thấy phổi bị thủng tạo thành những hang lao. Các xét nghiệm khác như phản ứng lao tố (IDR) dương tính, tìm vi trùng lao (AFB) trong đàm, dịch phế quản… dương tính, bạch cầu lympho trong máu tăng, tốc độ máu lắng (VS) tăng.
Điều trị bệnh lao gồm nâng đỡ thể trạng và sử dụng thuốc chống lao. Thuốc kháng lao là những loại thuốc diệt vi trùng. Hiện nay chương trình chống lao quốc gia sử dụng 5 loại thuốc gồm Streptomycine, Rifampicin, Isoniazide, Ethambutol và Pirazynamide. Trừ Streptomycine là thuốc chích, bốn loại còn lại là thuốc uống và được khuyên là uống lúc bụng đói vào buổi sáng trước khi ăn ít nhất 30 phút.
Thời gian điều trị kéo dài khoảng 6- 8 tháng.
Diễn tiến: Nếu điều trị sớm và tuân thủ điều trị đúng thì sau thời gian điều trị như trên bệnh nhân sẽ khỏi hẳn bệnh và không để lại di chứng. Tuy nhiên nếu điều trị trễ hay không tuân thủ đúng sẽ để lại nhiều di chứng như ho khạc đàm kéo dài, khó thở, ho ra máu dai dẳng hay bị nhiễm trùng phổi tái đi tái lại.
Phòng ngừa bệnh lao bằng cách làm việc điều độ, thường xuyên tập thể dục để tăng cường sức khỏe và tránh tiếp xúc nguồn lây.
4.Tác động qua lại giữa hen, BPTNMT và bệnh lao phổi:
Mỗi bệnh đều có những triệu chứng hô hấp như ho, khạc đàm, có thể có khó thở cho nên đôi khi có thể bị nhầm lẫn giữa các bệnh này với nhau. Chính vì thế để chẩn đoán xác định bác sỹ sẽ yêu cầu làm thêm một số xét nghiệm khác như đã nêu ở phần trên.
Ở bệnh nhân bị BPTNMT, hệ thống lông chuyển kém tác dụng, khả năng bảo vệ cơ thể bị yếu kém nên vi trùng lao dễ dàng xâm nhập và gây ra bệnh. Hơn nữa, ở những bệnh nhân BPTNMT hay hen suyễn mà sử dụng corticoid lâu dài (đặc biệt là các thuốc dạng uống hay chích mà có tác dụng kéo dài) thì sẽ làm giảm sức đề kháng của cơ thể và dễ dàng làm bệnh lao bùng phát.
Lao phổi có thể làm nặng thêm bệnh hen, BPTNMT và đưa bệnh vào đợt cấp. Do vậy, những người mắc bệnh hen, BPTNMT cần kiểm tra khi có triệu chứng nghi ngờ như nêu trên để giúp phát hiện sớm bệnh lao nhằm điều trị kịp thời tránh những biến chứng nặng nề.
5. Kết luận:
- Bệnh hen, BPTNMT và lao phổi có thể nhầm lẫn nên phải được bác sỹ chẩn đoán xác định (người bệnh không nên tự mình chẩn đoán vì thấy có triệu chứng giống như những người khác đã được chẩn đoán).
- Hen, BPTNMT là bệnh mạn tính không lây, chẩn đoán dựa vào lâm sàng, hô hấp ký, tiền căn tiếp xúc với yếu tố nguy cơ, cơ địa,…
- Chẩn đoán lao phổi dựa vào lâm sàng, X quang phổi và các xét nghiệm vi trùng lao.
- Người bệnh hen, BPTNMT, nhất là có dùng corticoid uống lâu ngày, có nguy cơ bị bệnh lao nhiều hơn những người bình thường. Do vậy nên kiểm tra khi có triệu chứng nghi ngờ để kịp thời phát hiện bệnh sớm.
- Khó thở, khò khè sau khi điều trị lao có thể do BPTNMT kết hợp hay chỉ do di chứng của bệnh lao và có thể nhầm lẫn với hen hay BPTNMT.